Thực đơn
Chiến_dịch_Donets Tương quan lực lượngTừ ngày 13 tháng 1 đến 3 tháng 4 năm 1943, chừng 50 vạn binh sĩ Hồng quân đã tham gia vào chiến dịch phản công Voronezh–Kharkov.[36] Tính tổng cộng, khoảng 6,1 triệu binh sĩ Hồng quân đã tham gia vào trận đánh và có 658 nghìn người bị loại khỏi vòng chiến do nhiều nguyên nhân. Trong khi đó, phát xít Đức đã triển khai 2,2 triệu quân tại Mặt trận Xô-Đức, trong đó có 10 vạn quân ở Na Uy. Vì vậy, vào đầu tháng 2 năm 1943, quân số Hồng quân đông gấp đôi phát xít Đức.[37] Tuy nhiên, do trận tuyến của Hồng quân bị kéo căng quá cỡ tại khu vực phía Nam Kharkov và do những thương vong kể từ đầu chiến dịch tấn công, quân Đức đã nắm ưu thế chiến thuật về binh lực tại khu vực mà họ phản công. Tính riêng số xe tăng Đức (350 chiếc) đã nhiều hơn gần gấp 7 lần so với số xe tăng Liên Xô tại đây.[34]
Để chống lại cuộc tấn công của 210.000 quân Liên Xô trên hướng Belgorod-Kharkov, ban đầu, Erich von Manstein chỉ có 70.000 quân của Cụm tác chiến Lanz để phòng thủ tại khu vực này.[42] Đến ngày 19 tháng 2, khi đã tập trung được Quân đoàn xe tăng 2 SS ở phía Tây Nam Kharkov thì quân Đức đã nắm trong tay ưu thế về binh lực, đặc biệt là về xe tăng khi Tập đoàn quân xe tăng 3 (Liên Xô) chỉ còn 110 xe tăng hoạt động được sau khi đánh chiếm Kharkov.[41] Ở giai đoạn đầu của chiến dịch, các đơn vị Đức tại khu vực này phần nhiều đều thiếu hụt biên chế, nhất là sau những tổn thất nặng nề từ tháng 6 năm 1942 đến tháng 2 năm 1943 - đến mức mà Hitler phải triệu tập một cuộc họp với các Thống chế Wilhelm Keitel, Martin Bormann về Hans Lammers nhằm bàn về việc động viên 80 vạn người vào quân đội - một nửa trong số đó là nhân lực trong các ngành công nghiệp "không cần thiết".[43] Từ tháng 2 trở đi, khi đã điều động hơn 50 sư đoàn từ nước Đức và Tây Âu sang, ưu thế về binh lực của quân đội Đức Quốc xã đã trở nên rõ rệt hơn trong khi các Phương diện quân Liên Xô đang dần dần bị bào mòn lực lượng trong các cuộc tấn công liên tục.[41] Cuối cùng thì hiệu quả của đợt tổng động viên này đã nâng cao sức chiến đấu của các binh đoàn Đức khi đến tháng 5 năm 1943, tổng quân số của quân đội Đức Quốc xã đã lên đến 9,5 triệu người, cao nhất tính từ đầu chiến tranh.[44] Trong đó, 3/5 số quân này (5,5 triệu người) có mặt tại Mặt trận Xô-Đức.
Đến đầu năm 1943 các lực lượng thiết giáp Đức đã chịu nhiều tổn thất nghiêm trọng.[45] Lúc này, mỗi sư đoàn thiết giáp chỉ có 70-80 xe tăng còn hoạt động được, hiếm có sư đoàn thiết giáp Đức nào có hơn 100 xe tăng.[46] Sau trận chiến tại Kharkov, tướng Heinz Guderian buộc phải quyết định thi hành một chương trình nhằm củng cố lực lượng thiết giáp cho quân Đức. Bất chấp những nỗ lực của ông, một sư đoàn thiết giáp Đức lúc này chỉ có thể có 10-11 nghìn quân (so với biên chế đầy đủ là 13-15.000).[47] Chỉ cho đến tháng 6 mỗi sư đoàn xe tăng Đức đã có từ 100-130 xe tăng.[44] Các sư đoàn SS thì trong tình trạng tốt hơn, mỗi sư đoàn có khoảng 150 xe tăng, một tiểu đoàn pháo tự hành và một số lượng xe bán tải bánh xích vừa đủ để chuyên chở binh sĩ và các đơn vị trinh sát[44] — biên chế của một sư đoàn SS là 20.000 người.[48] Trong thời gian này, phần lớn các xe tăng Đức là loại Panzer III và Panzer IV,[49] mặc dù Quân đoàn xe tăng 2 SS đã nhận được một số xe tăng hạng nặng Con hổ.[50]
Do những nỗ lực tăng viện cho mặt trận Xô-Đức, tại thời điểm mở chiến dịch Donets, Thống chế Erich von Manstein nắm trong tay một lực lượng xe tăng đông đảo nhất trên mặt trận Xô-Đức tương đương với ba tập đoàn quân xe tăng. Trong đó, Quân đoàn xe tăng 2 SS mới được điều từ Pháp sang được coi là lực lượng đột kích tuyệt đối trung thành. Các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 đều được tái trang bị hàng trăm xe tăng mới kiểu Tiger-I, phần lớn số xe tăng Panzer-IV thế hệ mới đều được nâng cấp bằng pháo 88 mm, tăng độ dày vỏ giáp phía trước xe lên trên 80 mm. Cuối tháng 2 năm 1943, Quân đoàn xe tăng 2 SS với quân số 60.000 người đã tập trung trên tuyến Poltava-Kharkov, bao gồm cả các đơn vị đã rút khỏi Kharkov. Tập đoàn quân xe tăng 1 vừa rút khỏi Kavkaz đang đóng tại Taganrog, Tập đoàn quân xe tăng 4 được bố trí ở phía Tây Nam Voroshilovgrad.[40] Vấn đề đặt ra đối với Erich von Manstein là bố trí lại lực lượng khi Tập đoàn quân xe tăng 4 đang có nguy cơ bị bao vây khi nó nằm sâu trong trận tuyến giữa hai Tập đoàn quân cận vệ 1 và 3 của Liên Xô. Ngoài ra, việc sử dụng Tập đoàn quân xe tăng 1 ở vị trí thích hợp cho có hiệu quả cũng được Erich von Manstein tính đến.[8]
Chiến dịch phản công ở Donbass và Chiến dịch phản công ở "chỗ lồi" Oryol - Bryansk của quân Đức tuy diễn ra trên hai hướng tác chiến khác nhau nhưng đều nhằm một mục đích, đó là tạo thế chuẩn bị cho Chiến dịch Thành Trì.[51] Tại thời điểm bắt đầu chiến dịch Donets, ở cánh Nam, thống chế Erich von Manstein có trong tay gần 100.000 quân trên tuyến đầu với hầu hết là các sư đoàn xe tăng thuộc các quân đoàn xe tăng 48 cùng với 2 sư đoàn xe tăng 1 và 2 SS của Quân đoàn xe tăng 2 SS vừa được chuyển từ Tây Âu sang. Ở giai đoạn sau của chiến dịch, khi Cụm tác chiến Hollidt và Tập đoàn quân xe tăng 1 bắt đầu tham gia phản công trên hướng Zaporozhye - Dniepropetrovsk và Tập đoàn quân xe tăng 4 tung lực lượng dự bị chiếm lại Kharkov thì hầu như toàn bộ Cụm tập đoàn quân Nam được huy động (trừ Tập đoàn quân 17 phòng thủ tại Krym và tuyến sông Mius).[41] Tổng cộng có đến trên 400.000 quân tham gia chiến dịch phản công lớn tại cánh Nam mặt trận Xô-Đức; tập trung vào hai hướng chủ yếu là Poltava - Kharkov - Slaviansk và Zaporozhye - Dniepropetrovsk - Kremenchuk.[52]
Được biết đến với cái tên Chiến dịch Donets, trên thực tế, cuộc phản công của quân Đức mở màn vào ngày 19 tháng 2 năm 1943[53] và kết thúc vào ngày 15 tháng 3 năm 1943.[3] Kế hoạch ban đầu của Thống chế Erich von Manstein dự định chiến dịch phản công này sẽ gồm ba giai đoạn. Mục tiêu của giai đoạn một là chặn đứng và tiêu hao phần lớn các cánh quân của quân đội Liên Xô đã tấn công quá sâu về phía sông Dniepr và bị kiệt sức trong khi di chuyển ở cự ly xa đến trên 300 km, không còn giữ được đội hình liên tục, bị phân tán và rất dễ bị tập kích từ hai bên sườn. Trong giai đoạn hai, mục tiêu sẽ là cuộc tấn công tái chiếm Kharkov phối hợp với Cụm tập đoàn quân Trung tâm tạo ra hai bàn đạp chiến dịch quan trọng trên hai hướng Oryol - Bryansk và Belgorod - Kharkov, vây bọc các Phương diện quân Bryansk, Trung tâm và Voronezh của quân đội Liên Xô trong vòng cung Kursk. Và mục tiêu của giai đoạn cuối là dùng đòn hợp điểm từ hai bàn đạp nói trên tấn công vào Kursk, phối hợp với các lực lượng của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm thanh toán các lực lượng Hồng quân tại đây. Tuy nhiên, giai đoạn cuối đã phải tạm hoãn lại do những bãi bùn lầy lội trong mùa tuyết tan tại Nga (Rasputitsa) đã khiến Cụm Tập đoàn quân Trung tâm gặp nhiều khó khăn khi hành quân.[3] Một lý do khác làm cho quân Đức phải tạm dừng chiến dịch là do Bộ Chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã muốn tập trung thật đầy đủ binh lực, bảo đảm chắc thắng. Còn Bộ trưởng tuyên truyền Đức Quốc xã Paul Joseph Göbbels thì cho rằng quân Đức luôn luôn thắng trong các chiến dịch mùa hè.
Ngay từ giai đoạn tấn công chọc thủng các phòng tuyến Đức vào giữa tháng 1 và tháng 2 năm 1943, lực lượng của Quân đội Liên Xô tại khu vực này đã bao gồm các phương diện quân Bryansk, Voronezh và Tây Nam.[40] Sau khi hoàn thành Chiến dịch Cái Vòng, ngày 15 tháng 2 năm 1943, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô điều động toàn bộ Phương diện quân Sông Đông đến hướng Kursk - Elets và đổi tên thành Phương diện quân Trung tâm.[54] Phương diện quân Trung tâm được triển khai giữa các phương diện quân Bryansk và Voronezh với nhiệm vụ khai thác chiến quả của hai phương diện quân này[55] - vốn đã chọc được một lỗ thủng vào phòng tuyến của Tập đoàn quân thiết giáp số 2 (Đức).[29] Hai phương diện quân Bryansk và Trung tâm được giao nhiệm vụ đối phó với Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức), còn hai Phương diện quân Voronezh và Tây Nam phải đối phó với Cụm tập đoàn quân Nam. Tổng cộng hai Phương diện quân Tây Nam và Voronezh có khoảng 500.000 quân, trong đó có 346.000 quân đóng xung quanh Kharkov vào thời gian quân Đức mở chiến dịch phản công Donets.[36]
Giống như quân đội Đức Quốc xã, các đơn vị quân đội Liên Xô cũng chịu nhiều thiệt hại trong thời gian qua và đang thiếu hụt biên chế trầm trọng. Ví dụ như các sư đoàn của Tập đoàn quân 40 chỉ còn 3.500 đến 4.000 người/sư đoàn. Tình hình binh lực của Tập đoàn quân 69 còn tồi tệ hơn, chỉ còn 1.000-1.500 người/sư đoàn. Một số sư đoàn chỉ còn 25-50 súng cối để yểm hộ về hỏa lực. Tình trạng này khiến N. F. Vatutin đã yêu cầu bổ sung gấp 19.000 quân và 300 xe tăng cho phương diện quân Tây Nam; trong khi phương diện quân Voronezh chỉ còn nhận được 1.600 quân thay thế kể từ khi mở Chiến dịch Ostrogozhsk-Rossosh đầu năm 1943.[56] Vào ngày 19 tháng 2 khi quân đội Đức Quốc xã mở màn chiến dịch phản công Donets, Phương diện quân Voronezh đã chịu thiệt hại quá nặng trong ba chiến dịch liên tiếp trước đó nhưng trận tuyến của họ lại bị kéo căng quá rộng đến trên 250 km - đến mức họ không thể chi viện cho Phương diện quân Tây Nam nằm tiếp giáp với sườn phía Nam họ trong chiến dịch "Bước Nhảy Vọt".[57]
Thực đơn
Chiến_dịch_Donets Tương quan lực lượngLiên quan
Chiến tranh thế giới thứ hai Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh thế giới thứ nhất Chiến tranh Pháp – Đại Nam Chiến dịch Điện Biên Phủ Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 Chiến tranh Pháp–Phổ Chiến tranh Đông Dương Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia Chiến dịch Hồ Chí MinhTài liệu tham khảo
WikiPedia: Chiến_dịch_Donets //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... http://bdsa.ru/index.php?option=com_content&task=v... http://militera.lib.ru/h/isaev_av6/13.html http://militera.lib.ru/h/tippelskirch/07.html http://militera.lib.ru/memo/german/guderian/08.htm... http://militera.lib.ru/memo/german/manstein/13.htm... http://militera.lib.ru/memo/german/manstein/14.htm... http://militera.lib.ru/memo/russian/kazakov_mi/07.... http://militera.lib.ru/memo/russian/rokossovsky/14... http://militera.lib.ru/research/glantz_d02/index.h...